
Thao túng tâm lý
Về mặt tâm lý học, thao túng tâm lý (gaslighting) là cách dùng những thông tin sai trái, thiếu chính xác để thao túng người khác nhằm có được sức mạnh và sự kiểm soát. Người thao túng dùng lời nói để khiến nạn nhân cảm thấy không còn tin tưởng vào trí nhớ, giá trị và óc phán đoán của bản thân. Đây là một dạng bạo hành tâm lý rất hiệu quả vì nó khiến nạn nhân tự nghi ngờ cảm xúc, khả năng và sự tỉnh táo của bản thân, giống như bị bịt mắt mà không biết mình đang bị che mắt vậy.
Ví dụ khi bị người chồng ngoại tình thao túng tâm lý, người vợ sẽ bị “bịt mắt”, cảm thấy tội lỗi khi nghi ngờ chồng.
Thủ thuật để thao túng tâm lý
- Bản năng (người thao túng làm một cách bản năng, không ý thức được một cách hệ thống rằng mình đang sử dụng kỹ thuật gì) : nạn nhân hoá bản thân họ. Vd trẻ con đòi kẹo mua đồ chơi. Tôi quá khổ rồi nên người khác phải giúp tôi, chiều tôi. Tôi khổ nên tôi phải làm như vậy…. Sao em đòi hỏi thế nhờ? Em mà làm abc, anh sẽ chết…
- Lối mòn: định kiến: đàn ông mà không kiếm được tiền là bất tài. Phụ nữ là để yêu thương chiều chuộng, anh không làm được là do anh vô dụng….
- Nói dối nhẹ nhàng / nói dối như thật: liên tục dùng lời nói, ngôn ngữ cơ thể để tầm thường hóa giá trị bản thân hay những cảm xúc của nạn nhân, nói dối trắng trợn hay giả vờ quên; dựng ra những chuyện không có thật; Vd: anh với cô ấy chỉ là bạn.
- Đánh tráo khái niệm / đánh tráo vấn đề/ Lập lờ, đánh đồng trách nhiệm (Equivocation): đổ lỗi ngược và buộc tội; khiến nạn nhân nghĩ mình không tỉnh táo, đầu óc có vấn đề; có những lúc ngọt ngào và khiến nạn nhân cảm thấy mập mờ. Vd: anh chỉ nhắn tin nói chuyện chứ có ngoại tình đâu. Anh chỉ vào nhà người ta chứ có ngủ với người ta đâu mà ngoại tình? Anh ngủ với người ta nhưng chỉ là ăn bánh trả tiền thôi. Đánh tráo vấn đề: Ai cho em động vào điện thoại của anh, em có biết đó là xâm phạm quyền riêng tư nghiêm trọng không?
Ví dụ, có nhiều quả đánh người yêu xong lại bảo “vì anh yêu em quá nên anh mới ghen, nên em đi chơi về muộn anh mới đánh”; hoặc “lúc đánh em anh cũng đau lòng lắm, anh thật là một thằng tồi hic hic hu hu”, hoặc “nếu em cố gắng hơn, nếu em không làm như thế thì anh đã không để bản thân mất kiểm soát rồi”. “Đó là những sai lầm thực sự đáng trách khi tất cả đều mất bình tĩnh.”, “Cả ba người đã phản ứng không đúng cách.” -> Anh ta đã cào bằng, đánh đồng hành vi của mình với hành vi của mẹ và vợ, và thần kì chưa kìa, cả ba người đều chịu trách nhiệm ngang nhau rồi nè! Như vậy, sau một hồi đọc, suýt nữa thì ta có cảm giác người b.ạo hà.nh và người bị b.ạo hà.nh có vai trò ngang nhau, lỗi là của tất cả mọi người rồi! Hòa cả làng! - Đổ lỗi, chuyển trọng tâm trách nhiệm (Shift the blame, Blame Shifting): Vd “Vợ tôi đang trải qua một giai đoạn vô cùng khó khăn với trầm cảm và rối loạn lo âu… đã có những phản ứng mạnh mẽ mà bản thân cô ấy cũng không kiểm soát được.” – Như vậy, lẽ ra anh ta là người phải chịu trách nhiệm chính, thì nay trách nhiệm ấy đã chuyển sang tình trạng sức khỏe tâm lý của vợ. Anh ta đã làm giảm tầm quan trọng của hành động bạo hành của chính mình, vì bệnh của vợ.
- Tấn công điểm yếu cá nhân: dùng những gì mà các nạn nhân trân trọng chống lại họ; từ chối giải quyết vấn đề, đánh lạc hướng. Vd: em tiêu cực nên không ai chơi với em ấy. Em nhìn lại mình xem, em như thế nào.
- Phụ thuộc: làm bạn cảm thấy đặc biệt khi ở cạnh họ + loại bỏ các mối quan hệ xung quanh bạn -> phụ thuộc và bị kiểm soát: tìm cách cô lập các nạn nhân và sau một thời gian đủ dài, nạn nhân không còn ai khác ngoài việc dựa dẫm vào chính kẻ thao túng. Vd: không có anh, em không sống nổi đâu. Người ta chẳng thương yêu gì em đâu, em chỉ có anh thôi. Muốn giàu phải abc…
HẠ THẤP ĐỐI PHƯƠNG (DOWNPLAYING)
Người có hành vi này ghen tị với bạn và chỉ muốn che lấp mọi hào quang của bạn.
Vd: “Cái đó cũng thường thôi mà, đâu có gì khó đâu.” “Chỉ được cái ăn may.”
GASLIGHTING
Gaslighting xảy ra thường xuyên trong những mối quan hệ yêu đương với ví dụ điển hình là việc ngoại tình. Khi nạn nhân cảm nhận được có gì đó không đúng trong mối quan hệ và nói chuyện thẳng thắn, kẻ thao túng không những không thừa nhận mà còn chối bỏ đến cùng, khiến nạn nhân tin rằng những lời tố cáo ấy chỉ là sự ảo tưởng.
CHỈ TRÍCH CÁ NHÂN (PERSONALIZING CRITICISM)
Nếu như ai đó liên tục làm bẽ mặt bạn bằng cách liệt kê ra tất cả những điểm yếu của bạn, thậm chí là những lỗi không đáng kể, đó chính là chỉ trích cá nhân. Họ cố tình làm bạn thấy tồi tệ và nhụt chí khi liên tục nhắc lại những sai lầm trong quá khứ của bạn, để rồi dễ dàng thao túng bạn làm bất cứ điều gì mà họ muốn.
Chỉ trích cá nhân rất thường thấy trong mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái. Những hành vi độc hại từ bố mẹ (như liên tục chỉ trích những lỗi nhỏ nhặt thay vì đưa ra những lời khuyên mang tính xây dựng) thường rất dễ gây tổn thương lâu dài cho tinh thần con cái.
SCAPEGOATING (CON DÊ GÁNH TỘI)
Scapgoating là khi một người, hoặc một nhóm người bị đổ lỗi vô cớ cho hành vi mà họ không phạm phải.
Có thể bạn nghĩ rằng đổ lỗi cho một người vô tội là việc không tưởng, nhưng đối với một số người thì lại rất dễ dàng. Họ không quan tâm đến việc làm tổn thương người khác, miễn là họ thoát khỏi tình huống đó. Những kẻ như thế có thể thuyết phục bạn rằng lỗi của họ chính là của bạn mà không hề cảm thấy áy náy.
Ở chốn công sở, hiện tượng Scapegoating xảy ra khá thường xuyên. Ví dụ, một người làm việc lâu năm và hiểu công việc hơn giao lại dự án mà họ biết sẽ thất bại cho một người mới vào để đùn đẩy trách nhiệm. Sau khi mọi việc diễn ra, nhân viên mới nghiễm nhiên phải nhận lỗi cho những vấn đề mà mình không kiểm soát được.
STONEWALLING (BỨC TƯỜNG ĐÁ)
“Bức tường đá” được dựng lên khi một người từ chối giải thích hay làm rõ mong muốn của mình với người kia, hay còn gọi là bạo lực im lặng, sự im lặng chết chóc.
Stonewalling thường xảy ra khi một cặp đôi đang cãi vã, nguyên nhân có thể đến từ những bất đồng, những lời tố cáo hay những kì vọng không được đáp ứng bởi đối phương. Lúc này, một trong hai người sẽ thu mình lại và từ chối việc giải thích hay làm rõ mong muốn của họ, và trở thành một “bức tường đá” với người kia.
Đối với nhiều người, mở lòng và bộc lộ cảm xúc là một việc khá khó khăn. Tuy nhiên, có những kẻ sẽ lạm dụng điều này để thao túng bạn. Bằng cách tạo dựng một bức tường đá, họ có thể điều khiển cách mà bạn đối xử và nhìn nhận họ. Họ dùng kĩ thuật này khi đang né tránh những câu hỏi của bạn, hoặc để không phải chịu trách nhiệm cho hành động của mình.
Bạn có thể dễ dàng nhận diện những bức tường đá này bằng những lời nói như: “Mệt quá, sao cũng được”, “Anh tin hay không thì tùy”, “Em làm gì căng thẳng quá”,…Ví dụ trong bộ phim Câu chuyện hoa hồng,…. Theo bác sĩ tâm lí Gottman, tạo dựng bức tường có thể dẫn đến việc chia tay của một cặp đôi, vì những vấn đề trong mối quan hệ không được giải quyết triệt để.
ĐE DỌA (THREATENING)
Khi những người không đứng đắn nắm trong tay một quyền lực nhất định, họ thường dùng cách đe dọa để thao túng người khác. Họ điều khiển bạn bằng cách đưa ra tối hậu thư và điều kiện. Thậm chí họ còn cảnh báo bạn rằng nếu không làm theo những gì họ muốn, họ sẽ làm tổn thương bạn.
Ví dụ: Anh không được nói chuyện với C nữa. Nếu không thì mình chia tay, anh chọn đi. Nếu em dám chia tay, anh sẽ chết cho em xem.
Trong một mối quan hệ lành mạnh, nếu hai bên tin tưởng và tôn trọng nhau, họ sẽ cho nhau không gian, để người kia có thể gìn giữ những mối quan hệ thân thiết khác với gia đình và bạn bè.
Một trong những công thức thao túng
DARVO, viết tắt của “deny, attack, and reverse victim and offender”, tạm dịch là “từ chối, tấn công ngược và hoán đổi vị trí của nạn nhân và kẻ bạo hành”.
Ví dụ, khi bị chỉ ra một lỗi nào đó, kẻ thao túng sẽ ngay lập tức chối bỏ, phủ nhận thực hiện hành vi sai trái (deny). Sau đó, sẽ tấn công ngược lại các nạn nhân bằng cách đánh lạc hướng hoặc đe dọa trả thù (attack). Cuối cùng, kẻ thao túng sẽ đóng vai nạn nhân, than vãn, giận dỗi, tỏ ra đáng thương, kêu gào lên các hội nhóm, chiêu mộ đồng minh để khiến đối phương cảm thấy tội lỗi và xấu hổ vì hành vi của bản thân.
Khi đó, kẻ thao túng bỗng nhiên đảo vai chuyển thành nạn nhân trong sự việc và hoàn toàn phủi tay với lời buộc tội ban đầu (reverse victim and offender).
Trong bộ phim Gaslight (năm 1944), nhân vật người vợ bị người chồng thao túng tâm lý suốt một thời gian dài nhằm chiếm đoạt tài sản thừa kế. Thuật ngữ Gaslighting bắt nguồn từ vở kịch/phim này và được sử dụng rộng rãi vào thập niên 60 như một hành vi lạm dụng nhận thức của nạn nhân. Nạn nhân sẽ bị thuyết phục rằng những gì họ thấy, nghe, nói và cảm nhận chỉ là sản phẩm của trí tưởng tượng. Một khi rơi vào cái bẫy của kẻ thao túng, họ bắt đầu nghi ngờ thực tế của chính mình và chịu tổn thương nghiêm trọng đến sức khỏe tinh thần.
Trong phim người chồng đã liên tục thay đổi đồ đạc trong nhà và điều chỉnh độ sáng của chiếc đèn ga (yếu tố quan trọng tạo nên tên phim) để khiến cô và mọi người tin rằng cô bị điên.
Làm gì trong mối quan hệ
Mục tiêu của kẻ thao túng chính là trốn tránh khỏi những hành vi sai lầm của mình. Người ngoại tình thao túng, nói dối một cách có hệ thống và giữ bí mật để không bị phát hiện. Thậm chí khi bị phát hiện, những kẻ này vẫn tiếp tục chồng chất thêm những lời nói dối để thuyết phục nạn nhân rằng họ mới chính là vấn đề. Họ thao túng chủ yếu là bởi họ thiếu khả năng chịu trách nhiệm với các hành vi của bản thân, nên đẩy trách nhiệm sang cho nạn nhân khiến họ cảm thấy đỡ tệ hơn về chính mình (tất nhiên, cũng có đầy người chủ đích thao túng thật)
“red flag lớn nhất trong tình yêu là gì?” – ” đó là việc khi càng ở lâu bên người đó, bạn càng cảm thấy chán ghét chính mình.”
Một người có thể mắc lỗi, có thể chưa đủ dũng khí để nhận lỗi, có thể chưa đủ trưởng thành nên còn bao biện tùm lum, nhưng nhất định phải đủ tử tế để không đổ lỗi lên nạn nhân. Ví dụ, anh ta ngủ quên, trễ hẹn đón bạn nên bạn trễ giờ đi làm, anh ta không dám nhận sai cũng được, đổ lỗi cho trời mưa, đường tắc, xe nổ lốp cũng được; nhưng đổ lỗi tại bạn không gọi điện đánh thức, đổ lỗi tại bạn chọn chỗ làm xa thế, đổ lỗi tại bạn biết anh ấy nhà xa mà vẫn đồng ý để anh ấy đến đón thì không được, flag đỏ lè.
Những người ở trong mối quan hệ toxic kiểu này thường sẽ càng ngày càng trở nên tự ti và nghi ngờ bản thân tột độ. Họ luôn cảm thấy mình không đủ tốt, mọi tội lỗi đều tại mình, mình đáng bị đối xử tệ, sẽ chẳng ai thèm yêu thương một người như mình – trừ cái người đang ở bên cạnh mình ra. Khi họ chán ghét bản thân, họ làm gì còn sức lực hay niềm tin mà mong cầu những thứ tốt đẹp hơn cơ chứ?
Từ xưa đến nay, người ta vẫn luôn nghĩ rằng có được tình yêu đẹp nghĩa là gặp được một người tốt và yêu thương mình. Nhưng thực ra, có được tình yêu đẹp là ở bên một người mà khi ở đó, bạn thấy yêu con người của chính bạn.
Nếu bạn yêu thích bản thân bạn khi ở bên cạnh ai đó thì xin chúc mừng, bạn có một tình yêu thật đẹp…
Nhận ra vấn đề, nhận ra lợi ích chung trong mối quan hệ là gì, và cân bằng lợi ích như thế nào : tự do thoải mái biểu đạt và tôn trọng lợi ích của nhau hài hòa mà không làm tổn thương người khác.
Đặt ranh giới rõ ràng
Việc thiết lập ranh giới rõ ràng là một trong những cách hiệu quả nhất để giữ cho bản thân không bị thao túng tâm lý. Hãy xác định rõ ràng những giới hạn của mình và không cho phép người khác vượt qua ranh giới này.
Nêu rõ lập trường của bạn
Khi tham gia vào một cuộc tranh luận hoặc thảo luận, hãy nêu rõ lập trường của mình một cách rõ ràng và dứt khoát. Điều này sẽ giúp bạn tránh được các chiêu trò thao túng tâm lý của người khác và giữ cho bản thân luôn tự tin trong quá trình trao đổi ý kiến.
Tôn trọng và yêu thương bản thân
Cuối cùng, để giữ cho bản thân không bị thao túng tâm lý, bạn cần phải tôn trọng và yêu thương bản thân. Hãy nhớ rằng bạn là một người có giá trị và xứng đáng được tôn trọng.
