Châu Á,  Đi

Tết Chol Chnam Thmay của người Khmer

Theo Phật lịch: 2557 của Phật giáo Nam tông Khmer (tức đầu tháng Chét là khoảng giữa tháng 4 dương lịch), dân tộc Khmer Bạc Liêu, An Giang, Cà Mau, Trà Vinh, Vĩnh Long …. cũng như mọi người dân tộc Khmer đều tiến hành lễ vào năm mới của dân tộc mình. Theo quan niệm của đồng bào dân tộc Khmer, là lúc giáp nắng và mùa mưa, là thời kỳ kết thúc mùa nắng chuẩn bị bước sang mùa mưa. Đây là thời điểm trời đất giao hòa, muôn cây xanh tốt, đâm chồi nảy lộc được người Khmer quan niệm là sự khởi đầu cho một năm mới gọi là Chôl Chnăm Thmây (vào năm mới).

Do mang ý nghĩa chào đón mùa mưa và mùa màng mới và là lễ hội lớn nhất trong năm, nên ngày xưa Tết Chôl Chnăm Thmây kéo dài từ 10-15 ngày. Những thập niên gần đây, trong xu thế đơn giản hóa lễ hội nói chung, lễ hội này chỉ còn 3 ngày (chưa kể công việc chuẩn bị trong nhiều ngày trước đó).

Ba ngày này được tính theo lịch của người Khmer Campuchia. Người Khmer do ảnh hưởng của khoa thiên văn truyền thụ từ Ấn Độ, họ tính đầu năm bằng hai lối vào: “Chôl” tính theo chuyển động của mặt trăng và đánh dấu việc thay đổi bằng biểu tượng của 12 con thú tượng trưng của con giáp trong một kỳ. “Chnăm” tính theo chuyển động của mặt trời. “Chôl” được tính vào tháng 4 dương lịch, còn “Chnăm” thì thay đổi theo trăng tròn hay khuyết.

Nguồn gốc Tết Chôl – Chnăm – Thmây

Nguồn gốc của lễ hội Chôl Chnăm Thmây được lý giải bằng truyền thuyết liên quan đến câu chuyện chuyển giao tôn giáo từ Bà La Môn giáo sang Phật giáo, xoay quanh cuộc đấu trí giữa Đại Phạm Thiên (Kabul Maha Prum) và cậu bé thông minh Thom Ma Bal, một tiền kiếp của đức Phật.

Chuyện kể rằng, ngày xưa, có một cậu bé tên là Thom Ma Bal rất thông minh, 7 tuổi đã biết đem sự hiểu biết của mình truyền bá cho mọi người. Dân chúng rất thán phục và thích nghe cậu thuyết giảng. Tiếng đồn về tài trí của Thommabal chẳng mấy chốc vang đến thượng giới. Các vị thần cũng xuống trần gian xin nghe Thom Ma Bal thuyết giảng. Do vậy, những buổi thuyết giảng của thần Kabul Maha Prum trên thượng giới ngày càng vắng vẻ.

Thần Kabul Maha Prum vốn rất có uy trên thượng giới, nay nghe ở trần gian có kẻ hơn mình nên rất tức giận. Thần cho gọi hết các vị thần tiên trở về, không cho xuống trần gian nghe thuyết giảng. Đồng thời tìm cách hãm hại Thom Ma Bal. Thần đặt ra ba câu hỏi và bắt Thom Ma Bal trả lời trong vòng 7 ngày. Thần giao ước, nếu cậu bé không trả lời được thì cậu phải dâng mạng sống của mình cho Thần. Ngược lại, Thần sẽ tự tay chặt đầu mình nếu Thom Ma Bal trả lời chuẩn xác ba câu hỏi.

Thom Ma Bal suy nghĩ suốt ngày đêm mà vẫn không tìm được lời giải đáp. Đến ngày thứ sáu, chàng đi lang thang mệt mỏi, thất vọng, ngồi nghỉ dưới cây thốt nốt, tình cờ nghe được lời giải từ hai con chim đại bàng.

Đúng hẹn, thần Kabul Maha Prum tay cầm gươm vàng, đáp xuống gặp Thom Ma Bal. Chàng trả lời đúng câu hỏi của thần. Thua cuộc, thần tự cắt đầu mình, tự sát.

Trước khi cắt, thần căn dặn những người con gái của mình hãy để đầu của ông trên một khay vàng và giữ nó trong một tòa tháp trên đỉnh Prassume, bởi, nếu để đầu ông rơi xuống biển, biển sẽ cạn, nếu để đầu của ông trên không thì trời không mưa, và nếu để đầu ông xuống đất, thì đất sẽ khô cằn, cỏ cây không mọc được.

Thần Kabul Maha Prum cũng không quên khuyên các con gái của mình hằng năm thay phiên nhau xuống trần gian để bảo vệ người dân hạ giới và phù hộ cho một năm bình an, mùa màng bội thu.

Từ đó về sau, hằng năm, cứ đến ngày thần Kabul Maha Prum cắt đầu, bảy tiên nữ con gái thần thay phiên nhau xuống trần gian, mang theo một mâm đầu của ông xuống núi Prassume rồi quay quanh chân núi ba vòng theo hướng mặt trời mọc.

Người Khmer coi ngày đó là ngày đầu tiên của năm mới

Tết Chôl – Chnăm – Thmây

Tết Chôl – Chnăm – Thmây còn gọi là tết “chịu tuổi”, năm nay tết diễn ra trong ba ngày (từ ngày 14,15 và 16 tháng 4 dương lịch), thông thường những ngày này người Khmer tập trung vào chùa. Tại chùa các vị Chư tăng tổ chức lễ với những nghi lễ, ý nghĩa khác nhau.

Chuẩn bị: Cho dù giàu hay nghèo đều không thể thiếu được Num-Chrụt (bánh tét), Num-tean (bánh ít) và Num-Kha-Nhây (bánh gừng)… các loại bánh này tượng trưng cho sự no ấm, làm ăn thịnh vượng, được mùa của người Khmer, dùng để cúng trên bàn thờ ông bà tổ tiên; dùng làm lễ vật, đi chùa và để tiếp khách trong những ngày tết.

Đêm giao thừa năm nay diễn ra (lúc 02h12 phút, ngày 13/4 dương lịch) mọi nhà đều thắp nhang đèn, hoa quả, ly nước ướp hương hoa… cúng trên bàn thờ trước sân nhà để tiễn vị Chư thiên cũ (Khmer gọi là Thần Têu-va-đa) và rước vị Thần Têu-va-đa mới xuống cai quản đất đai, thổ trạch. Đồng bào dân tộc Khmer tin rằng hàng năm Thần Têu-va-đa đều luân phiên nhau xuống một vị để cai quản dương thế trong một năm. Cho nên, đồng bào dân tộc Khmer rất tôn kính, ngưỡng mộ và trong đêm giao thừa mọi người ngồi xếp chân trước bàn thờ sân nhà, khấn vái để vị Thần Têu-va-đa năm mới ban phước lành cho cả gia đình trong năm.

Nơi hai vị tiên nữ chuyển giao nhiệm vụ cai quản.

Nghi lễ này thể hiện mong ước đón những điều may mắn và tốt lành trong năm mới. Tiễn những điều không mai và xui xẻo trong năm cũ đi.

Năm của tiên nữ Têvađa, tên đầy đủ là Ké ma ra Tê vi. Đây là công chúa thứ 6 của thần Ka-bol Ma-ha Prum (Đại Phạm Thiên). Theo truyền thuyết tiên nữ Têvađa mặc áo trắng, đeo ngọc ngà, dùng món chuối, tay phải cầm kiếm, cưỡi trâu, tay trái cầm đàn Ping.

Ngày thứ nhất có tên gọi là Sang-kran “bước đi, tiến tới”.

Hoạt động quan trọng nhất của ngày đầu năm mới đối với người Khmer là Lễ rước Đại lịch (Maha Sangkran). Mọi người tắm gội, mặc quần áo đẹp, đội cỗ lên chùa. Lễ rước diễn ra vào giờ tốt đã được chọn sẵn, bất kể sáng hay chiều.

Đại lịch được đặt trong khay sơn son thếp vàng đưa lên kiệu khiêng đi vòng quanh chính điện 3 vòng trang trọng, vừa là lễ chào mừng năm mới vừa chờ điềm báo năm mới tốt hay xấu, tùy vào cuộc rước có hoàn thiện hay không, rồi mới vào chính điện làm lễ. Sau đó, tất cả vào lễ Phật, tụng kinh chúc mừng năm mới.

Khi cử hành nghi thức rước đại lịch, một số chùa còn tổ chức dàn nhạc ngũ âm hoặc nhóm múa Chhay-dăm với người dẫn đầu mang mặt nạ, tay cầm gậy múa mở đường… Kế tiếp là vị Achar đội mâm lễ vật trên đầu. Một người đi phía sau cầm lọng màu vàng che cho người đội mâm. Sau cùng là đoàn người tay cầm nhang, đèn đốt sẵn. Già trẻ tuần tự xếp hàng hai, hàng ba xuất phát từ hướng Đông, theo chiều kim đồng hồ, đi vòng quanh chánh điện, thể hiện sự cung kính đối với đức Phật. Khi đi đủ ba vòng, đoàn rước tiến vào chánh điện. Vị sư cả tiếp nhận quyển Đại lịch, đặt lên bệ thờ, tụng kinh đón vị thần cai quản năm mới và tụng kinh cầu an. Những gia đình không tham gia rước Đại lịch tại chùa cũng có thể thực hiện nghi thức đón năm mới tại nhà…

Lễ rước đại lịch của người Khmer có ý nghĩa tương tự lễ đón giao thừa trong Tết Nguyên đán của người Việt và nhiều dân tộc khác, nhằm tiễn những điều xui xẻo của năm cũ, gửi gắm ước vọng vào những điều mới mẻ, may mắn, tốt lành trong năm mới.

Ngày thứ hai gọi là Wana-bot “thiếu hoặc thừa”.

Ngày thứ hai diễn ra lễ dâng cơm và đắp núi cát.

Lễ dâng cơm ngày thường, các vị sư, sãi mang bình bát đi vào các phum sóc người Khmer khất thực vào các buổi sáng. Nhưng với Tết Chôl Chnăm Thmây thì người Khmer trong phum sóc mang cơm đến tận chùa dâng cho các vị sư sãi, nghe tụng niệm kinh Phật.

Mở đầu buổi lễ dâng cơm là lời tụng niệm, thuyết pháp của các vị Acha, sau đó các vị sư tụng kinh, làm lễ tạ ơn những người đã làm ra vật thực và cũng để đưa vật thực đến các linh hồn những người thân quá cố. Sau đó, các vị sư thưởng thức vật thực và tụng kinh chúc phúc cho thí chủ và cầu siêu cho những linh hồn đã khuất. Đó là một phong tục truyền thống tốt đẹp của người Khmer được duy trì từ thế hệ này sang thế hệ khác.

Lễ đắp núi cát: Lễ này được tổ chức vào chiều ngày thứ hai của tết Chôl Chnăm Thmây, nhằm thể hiện công sức, lòng thành của người tham gia đắp núi cát. Mỗi hạt cát đắp lên thành núi sẽ giải thoát được một kẻ có tội ở thế gian. Vì thế, người Khmer rất hăng hái đắp núi cát, để mong Đức Phật ban phước lành.

Ngày nay, việc đắp núi cát chỉ được tổ chức trong những năm chùa đang xây dựng, cát do người dân mang đến sẽ được dùng vào việc xây dựng chùa. Một số chùa thay núi cát bằng đắp núi lúa, núi gạo. Số lúa và gạo được dùng vào việc cung cấp lương thực cho các vị sư sãi hoặc hỗ trợ cho dân nghèo.

Ngày thứ ba gọi là Lơn-sắtk “tiến lên, tăng lên”.

Vào ngày thứ ba của Tết Chôl Chnăm Thmây, bà con Khmer tiến hành Lễ tắm tượng Phật và Lễ cầu siêu.

Lễ tắm tượng Phật thường diễn ra vào buổi chiều. Các vị Acha đặt tượng Phật vào thau lớn có hoa tươi, nước tinh khiết ướp nước hoa. Vị Acha đọc kinh, các vị sư sãi dùng cành hoa nhúng vào nước thơm tắm tượng Phật. Sau khi làm lễ tắm tượng Phật ở chùa, trở về nhà, người Khmer tiếp tục làm lễ tắm tượng Phật ở gia đình.

Nghi lễ nhằm mục đích bày tỏ lòng biết ơn đối với Đức Phật, rửa sạch những điều không may của năm cũ và đón những điều may mắn trong năm mới.

Lễ cầu siêu: Sau khi kết thúc lễ tắm tượng Phật, tắm sư sãi, mọi người cùng các vị Acha tập trung tại khu vực tháp đựng hài cốt để cầu siêu cho linh hồn các nhà sư viên tịch và những người thân của mình được siêu thoát.

Người Khmer đặt một khay lễ vật trên một chiếc chiếu trước tháp, thắp hương và nghe các nhà sư tụng kinh. Trong khi đọc kinh, các nhà sư vẩy nước thơm lên các tín đồ và xung quanh tháp để lan tỏa hạnh phúc cho họ và gia đình.

Lễ cầu siêu là nghi lễ cuối cùng kết thúc Tết Chôl Chnăm Thmây của người Khmer.

Có thể nói, Tết Chôl Chnăm Thmây không chỉ thể hiện quan niệm của người Khmer về chu kỳ vận chuyển của năm, mà còn nhằm giáo dục con người về tấm lòng hiếu thảo, đoàn kết gắn bó thắt chặt tình đoàn kết thương yêu nhau trong phum sóc, cũng là dịp để mọi người gặp gỡ nhau chia phúc, chúc mừng, thăm hỏi, bàn bạc, trao đổi kinh nghiệp chuyện tương lai.

Té nước và ném bột

Trong dịp tết Chol Chnam Thmay, té nước và ném bột là hoạt động được rất nhiều người mong đợi, đặt biệt là các bạn trẻ.

Tục tắm ông bà tại nhà của người Khmer Nam Bộ

Để chuẩn bị cho buổi lễ, các con cháu trong gia đình sẽ trải chiếu hoa, chuẩn bị xà phòng thơm, nước ướp hương, khăn mới, quần áo mới… rồi mời ông bà ngồi lên ghế cao. Con cháu sẽ cùng quỳ gối, chắp tay, cúi đầu xin tha thứ cho những thiếu sót, lỗi lầm trong năm cũ, đồng thời cam kết không tái phạm trong năm mới. Sau khi đọc kinh cầu nguyện sám hối, cầu mong may mắn, hạnh phúc, con cháu cùng quỳ lạy 3 lần rồi thực hiện nghi thức tắm rửa, thay quần áo mới và tặng quà cho ông bà.

Dân tộc Khmer

Tên tự gọi: Người Khmer.

Tên gọi khác: Cur, Cul, Cu Thổ, Việt gốc Miên, Khơ Me K’rôm.

Dân số: 1.260.640 người, (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn – Khơ Me.

Lịch sử: Trước thế kỉ XII người Khmer và văn hoá của họ giữ vai trò chủ thể ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long.

Những nhân vật quen thuộc trong đời sống văn hóa người Khmer

Hoạt động sản xuất: Người Khmer là cư dân nông nghiệp dùng cày và trồnglúa nước. Trong bộ công cụ nông nghiệp khá hoàn thiện và hiệu quả của họ, có những dụng cụ độc đáo thích ứng với điều kiện địa lí sinh thái Nam bộ như cái phảng thay cho cày chuyên dùng ở vùng đất phèn, mặn để phát cỏ, cù nèo (Pok) dùng để vơ cỏ. Cây nọc cấy (Sơ chal) dấu vết của chiếc gậy chọc lỗ xa xưa, tạo ra lỗ để cắm cây lúa ở những chân ruộng nước nhưng đất cứng, và cái vòn gặt (Kần điêu) dùng để cắt lúa.

Người Khmer có nghề đánh cá, dệt, chiếu, đan lát, dệt vải, làm đường thốt nốt và làm gốm. Kĩ thuật gốm đơn giản, công cụ chính là hòn kê (K’leng), bàn dập (Chơ), chưa dùng bàn xoay, không có lò nung cố định, gốm mộc, không màu,với độ nung thấp. Sản phẩm gốm chủ yếu là đồ gia cụ, tiêu biểu nhất là bếp (Cà ràng) và nồi (Cà om) rất được người Việt, người Hoa ở đồng bằng sông Cửu Long ưa dùng

Ăn: Người Khmer trồng hơn 150 giống lúa tẻ và nếp khác nhau, họ thường ăn cơm tẻ và cơm nếp. Thức ăn hằng ngày có tôm, cá nhỏ, ếch, nhái, rau, củ. Họ chế biến rất nhiều loại mắm: mắm ơn Pứ làm bằng tôm tép, mắm Pơ inh làm bằng cá sặc, nhưng nổi tiếng nhất là mắm B’hóc làm bằng cá lóc, các sọc, cá trê, tôm tép, mắm pơ inh làm bằng cá sặc, nhưng nổi tiếng nhất là mắm B’hóc làm bằng cá lóc, cá sọc, cá trê, tôm tép trộn với thính và muối. Gia vị ưa thích nhất là vị chua (từ quả me hay mè) và cay (hạt tiêu, tỏi, sả, ca ri…).

Mặc: Nam nữ trước đây đều mặc xà rông bằng lụa tơ tằm do họ tự dệt. Lớp thanh niên ngày nay thích mặc quần âu với áo sơmi. Những người đứng tuổi, người già thường mặc quần áo bà ba màu đen, nam giới khá giả đôi khi mặc quần áo bà ba màu trắng với chiếc khăn rằn luôn quấn trên đầu, hoặc vắt qua vai. Chỉ đặc biệt trong cưới xin, nam nữ mới mặc quần áo cổ truyền. Chú rể mặc áo xà rông, áo màu đỏ, cổ đứng với hàng khuy trước ngực, bên vai trái quàng chiếc khăn dài trắng (Kăl xinh) và con dao cưới (Kầm pách) ngụ ý để bảo vệ cô dâu. Còn cô dâu mặc Xăm pốt (váy)màu tím hay màu hồng, áo dài màu đỏ, quàng khăn và đội mũ cưới truyền thống. áo dài Khơ Me (Wện) gần gũi với chiếc áo dài của phụ nữ Chăm: áo bịt tà, thân áo rộng và dài dưới gối, cổ áo thấp và xẻ trước ngực vừa đủ để chui đầu vào, tay áo chật, hai bên sườn thường ghép thêm bốn miếng vải (thường hoặc màu) kéo dài từ nách đến gấu áo.

: Họ sống ở đồng bằng sông Cửu Long, tập trung chủ yếu ở các tỉnh miền Tây Nam bộ và tụ cư trên 3 vùng môi sinh lớn: vùng đồng bằng nội địa, vùng phèn mặn ven biển, vùng đồi núi Tây Nam giáp biên giới Cam Pu Chia. Người Khmer trước đây ở nhà sàn, nay sống trong các ngôi nhà đất.

Phương tiện vận chuyển: Thường sử dụng xe bò (cộ), xe lôi bánh gỗ, hoặc bánh hơi, đi lại trên đường hay những chân ruộng khô, vận chuyển nông sản trong mùa thu hoạch.

Sống trong môi trường chằng chịt kênh, rạch, ghe, thuyền của người Khmer có rất nhiều loại: xuồng ba lá, ghe tam bản, thuyền ” tắc rán” hoặc thuyền “đuôi tôm” chạy máy. Ðặc biệt nhất là chiếc ghe Ngo (Tuộc mua) dài 30m, làm bằng gỗ sao, có từ 30-40 tay chèo, mũi và hai bên thành thuyền có vẽ hình ó biển, voi, sư tử, sóng nước. Ghe Ngo chỉ sử dụng trong dịp lễ chào mặt trăng OK-ang Bok (tháng 10 âm lịch), còn ngày thường họ gửi trong chùa, được cư dân trong các “Phum”, “Sóc” coi như vật thiêng.

Quan hệ xã hội: Gia đình nhỏ một vợ một chồng, ở riêng và là đơn vị kinh tế độc lập, có nơi 3-4 thế hệ sống chung trong một nhà. Xã hội Khmer vẫn còn tồn tại nhiều tàn dư mẫu hệ.

Người Khmer có rất nhiều họ khác nhau. Những họ do triều Nguyễn trước đây đặt ra như: Danh, Kiên, Kim, Sơn, Thạch. Những họ tiếp thu từ người Việt và người Hoa như: Trần, Nguyễn, Dương, Trương, Mã, Lý… Lại có những họ thuần tuý Khmer như U, Khan, Khum. Tình trạng ngoại tình, đa thê, li hôn hoặc loạn luân giữa những người có huyết thống trực hệ, ít xẩy ra hoặc tuyệt đối nghiêm cấm.

Hôn nhân: Hôn nhân thường do cha mẹ xếp đặt, có sự thoả thuận của con cái. Cưới xin trải qua 3 bước: làm mối, dạm hỏi và lễ cưới, được tổ chức ở bên nhà gái. Sau đó, người con trai phải ở bên nhà vợ một thời gian. Trải qua ít năm hoặc khi có con, họ ra ở riêng, nhưng vẫn cư trú bên ngoại.

Ma chay: Tục hoả thiêu đã có từ lâu. Sau khi thiêu, tro được giữ trong tháp “Pì chét đẩy”, xây cạnh ngôi chính điện trong chùa.

Lễ tết: Có 2 lễ lớn trong năm.

Tết Chuôn chnam Thmây tổ chức từ ngày 1 đến ngày 3 đầu tháng Chét (theo Phật lịch) vào khoảng tháng 4 dương lịch.

Lễ chào mặt trăng (ok ang bok) tổ chức vào rằm tháng 10 âm lịch, trong lễ này có đua thuyền Ngo giữa các phum – sóc.

Thờ cúng: Thờ Phật, tổ tiên và thực hành các nghi lễ nông nghiệp như cúng thần ruộng (neak tà xiê), gọi hồn lúa (ok ang leok), thần mặt trăng (ok ang bok).

Học: Con trai khi lớn đều được cha mẹ gửi vào chùa làm sư từ 3 đến 5 năm. Họ được học kinh Phật, học chữ Khmer ở các trường chùa. Chỉ sau nghĩa vụ tu hành, họ mới được phép hoàn tục và mới có quyền được lập gia đình.

Các nghệ nhân người Khmer (Cà Mau) diễn tấu với các nhạc cụ trong dàn nhạc trống lớn. Ảnh Huỳnh Lâm.jpg
Các nghệ nhân người Khmer (Cà Mau) diễn tấu với các nhạc cụ trong dàn nhạc trống lớn. Ảnh Huỳnh Lâm

Văn nghệ: Người Khmer có cả một kho tàng phong phú về truyện cổ như thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, ngụ ngôn, truyện cười, có một nền sân khấu truyền thống như Dù kê, Dì kê, một nền âm nhạc vừa có nguồn gốc Ấn Ðộ, vừa có nguồn gốc Ðông Nam Á. Nghệ thuật và kiến trúc chùa tháp được coi là di sản đặc sắc nhất của văn hoá Khmer. Trong các ngôi chùa Khmer của Phật giáo tiểu thừa (Thérévada), ngoài tượng Ðức Phật Thích Ca được tôn thờ duy nhất, chiếm vị trí trung tâm khu chính điện, vẫn tồn tại một hệ thống phong phú linh thần, linh thú – những dấu vết tàn dư còn lại của Bà la môn giáo và tín ngưỡng dân gian.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *